Những giai thoại về Trạng Trình [Nguyễn Bỉnh Khiêm]
» SẤM TRẠNG TRÌNH
NGUYỄN BỈNH KHIÊM
» Rồng nằm bể cạn bấy lâu nay,
Rắn mọc 2 đầu khó nghĩ thay !
Ngựa đã mất yên , không kẻ
cưỡi,
Dê khôn ăn lộc ngoãnh về tây !
Lũ khỉ ôm con ngồi mếu máo,
Gà kia vỗ cánh chập chùng bay !
Đoàn chó vẫy đuôi mừng chủ cũ!
Ủn ỉn ăn no lợn ngủ ngày.
Ttiểu sử Trạng Trình
NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491 –
1585)
Ông sinh năm Tân hợi
đời vua Lê Thánh Tông- Hồng Ðức
thứ 22 tại làng Trung Am, huyện
Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải
Dương (nay thuộc xã Lý Học,
huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng)
Thân phụ của ông là giám sinh
Nguyễn Văn Định, nổi tiếng hay
chữ nhưng chưa hiển đạt trong
đường khoa cử. Thân mẫu là bà
Nhữ Thị Thục, con gái út của
Thượng thư bộ hộ Nhữ Văn Lan
triều Lê Thánh Tông. Quê ông ở
làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh,
phủ Nam Sách, trấn Hải Dương
(nay là thôn Nam Tử, xã Kiến
Thiết, huyện Tiên Lãng, Hải
Phòng.
Theo tài liệu để lại bà Nhữ Thị
Thục là bậc nữ lưu tài hoa giỏi
văn chương và tài học về lý số.
Biết trước những gì có thể xảy ra
và mộng lớn con cái nên danh
phận. Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc trẻ
học với Lương Ðắc Bằng từng là
đại thần giữ chức Thượng thư
dưới triều Lê sơ, ông dâng những
điều trần nhằm ổn định triều
chính không được vua Lê thi
hành, Lương Đắc Bằng cáo quan
về quê sống đời dạy học (1509).
Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh
chăm chỉ trở thành học trò xuất
sắc. Bởi vậy trước khi qua đời,
Bảng nhãn Lương Đắc Bằng trao
cho Nguyễn Bỉnh Khiêm bộ sách
quý về Dịch học (Chu Dịch) là
[Thái Ất thần kinh] từ đó ông tinh
thông về lý học và tướng số,
nghiên cứu về lý số với thiên tài
“thần thông” có khả năng siêu
quần, quán chúng về thấu thị,
thần giao cách cảm, Nguyễn Bỉnh
Khiêm bỏ qua 9 kỳ đại khoa
(trong đó có 6 khoa thi dưới triều
Lê sơ). Ngay cả khi nhà Mạc lên
thay nhà Lê sơ (1527), xã hội
dần đi vào ổn định nhưng
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không
vội vã ra ứng thí (ông không
tham dự 2 khoa thi đầu tiên dưới
triều Mạc).
Tới năm Đại Chính thứ sáu (1535)
đời Mạc Thái Tông (Mạc Đăng
Doanh) thịnh trị vương đạo nhất
triều Mạc (1527-1592), ông
quyết định đi thi và đậu ngay
Trạng Nguyên. Năm ấy ông đã
45 tuổi. được bổ nhiệm làm Đông
Các hiệu thư rồi sau giữ nhiều
chức vụ khác nhau như Tả Thị
Lang Bộ Hình, Tả Thị Lang Bộ Lại,
kiêm Đông Các Đại Học, làm quan
được 8 năm, ông dâng sớ hạch
tội 18 lộng thần vua không nghe.
Ông cáo quan năm 1542 về
vườn, lập Bạch Vân Am và hiệu
Bạch Vân Cư Sĩ mở trường dạy
học cạnh sông Hàn Giang còn có
tên Tuyết Giang, các môn sinh
tôn ông là “Tuyết Giang phu tử”.
môn sinh của ông có nhiều người
hiển đạt sau này như Phùng Khắc
Khoan, Lương Hữu Khánh,
Trương Thời Cử, Đinh Thời
Trung, Hàn Giang cư sĩ Nguyễn
Văn Chính (con trai cả của ông)…
thơ Trạng Trình với triết lý của
Thái Ất là nguồn tri thứchữu thể,
về đời sống nhân sinh với càng
khôn trong vũ trụ. Thái Ất còn
gọi là Lý Thiên, Lý Địa và Lý
nhân.
Ngư ông bất ngộ Ðào Nguyên
khách
Khởi thức hưng vong thế cổ kim
Nhàn trung hoa thảo túc cung
xuân
Tà dương độc lập đô vô sự _Dịch:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao
xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…
»Dù Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn
làm quan, nhưng vua Mạc Phúc
Hải phong cho ông tước Trình
Nguyên Hầu vào năm Giáp thìn
(1544), ngụ ý đề cao ông có
công khơi nguồn ngành lý học,
sau đó được thăng chức Thượng
Thư Bộ Lại, tước hiệu Trình Quốc
Công. Từ đó người đời gọi ông là
Trạng Trình. Nhờ học phương
pháp tính theo Thái Ất, tiên đoán
được biến cố trước và sau 500
năm. Người Trung Hoa khen
Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
“An Nam lý học hữu Trình
Tuyền”. Tục truyền rằng Năm
Bính ngọ (1546) Mạc Phúc Hải
mất truyền ngôi lại cho con Mạc
Phúc Nguyên mãi đến năm mậu
thân (1548) vua Trang Tông mất,
Trịnh Kiểm lập Thái tử tên Duy
Huyên lên ngôi tức Trung Tông
được 8 năm thì mất không có con
nối nghiệp. Trịnh Kiểm muốn làm
vua nhưng còn sợ dư luận, nên
sai người đến Hải Dương hỏi ý
kiến Nguyễn Bỉnh
Khiêm. ông không chỉ bảo người
giúp việc mà nói ngụ ý: “năm nay mất
mùa, thóc giống không tốt,
chúng mày nên tìm giống cũ mà
gieo mạ. Giữ chùa thờ Phật thì ăn
oản.. “ Sau đó Trịnh Kiểm tìm con
cháu họ Lê lên làm vua.
Dù Trạng Trình ở ẩn, vua Mạc
cũng như các chúa Trịnh, chúa
Nguyễn có việc hệ trọng vẫn cho
người đến hỏi ý ông. Ông thường
kín đáo khuyên Vua cố gắng
tránh chiến tranh để nhân dân
khỏi chết chóc. Trong năm Quang
Thiệu (Lê Chiêu Tôn) có việc biến
loạn, Nguyễn Bỉnh Khiêm không
muốn tiếng tăm với đời lúc bấy
giờ Trịnh Tuy, Mạc Ðăng Dung
cũng cố ý muốn tranh quyền,
đánh nhau mấy năm dài. Ông
tính số Thái Ất, biết nhà Lê lại
khôi phục được và làm bài thơ:
» "Non sông nào phải buổi bình thời
Thú đánh nhau chi khéo nực cười
Cá vực, chim rừng, ai khiến đuổỉ
Núi xương sông tuyết, thảm đầy
vơi
Ngựa phi chắc có hồi quay cổ (1)
Thú dữ nên phòng lúc cắn người
(2)
Ngán ngẩm việc đời chi nói nữa
Bên đầm say hát, nhởn nhơ chơi"
~~~~~~~~~
1/ ứng nghiệm về sau nhà Lê khôi
phục
2/ ứng nghiệm nhà Trịnh giữ nhà
Lê
Sau khi nhà Lê bị Mạc Đăng Dung
(1483-1541) chiếm ngôi, con của
vị tướng triều Lê là Nguyễn
Hoàng Dụ trốn sang Lào, được
vua Lào cho nương náu ở xứ
Cẩm Châu, trấn Nam Phủ, tỉnh
Thanh Hóa. Năm Quý Tỵ (1532)
Nguyễn Kim lập con út vua Chiêu
Tông lên làm vua, gọi là Lê Trang
Tông. Để mưu đồ đại sự, Nguyễn
Kim (1467-1545) thu nạp kiện
tướng ở tỉnh Thanh Hóa là Trịnh
Kiểm, sau là rể của Nguyễn Kim.
Năm Canh Tý (1540), Nguyễn
Kim đem quân đánh chiếm Nghệ
An và thu phục luôn cả Thanh
Hóa. Nhưng bỗng dưng Nguyễn
Kim chết vì ngộ độc (1545), mọi
bình quyền về tay Trịnh Kiểm.
Việt Nam lúc bấy giờ bị chia đôi:
từ Sơn Nam trở ra thuộc nhà
Mạc, gọi là Bắc Triều. Từ Thanh
Hóa trở vào là khu vực của nhà
Lê hay gọi là Nam Triều.
Nguyễn Kim mất, để lại hai người
con trai là Nguyễn Uông và
Nguyễn Hoàng (1525-1613) cả
hai tuy còn ít tuổi nhưng đã bộc
lộ tài năng xuất sắc hơn người.
Trịnh Kiểm lo sợ cả hai sau này có
thể tranh giành địa vị với mình,
nên ngấm ngầm ngăn trở dù
Nguyễn Uông chỉ mắc một lỗi
nhỏ, Trịnh Kiểm cũng buộc
Nguyễn Uông phải chịu phép gia
hình. Nguyễn Hoàng thấy anh bị
hại, sợ đến lượt mình, liền cử
người kín đáo lên hỏi Trạng Trình.
Trạng không trả lời cụ thể, chỉ
đứng ngắm đàn kiến bò trên hòn
Non Bộ trước sân nhà và nói một
câu:
Hoành sơn nhất đái, vạn đại
dung thân.
Nghĩa là từ núi đèo ngang ở
Quảng Bình kia có thể yên thân
được muôn đời. Từ câu nói đó,
Nguyễn Hoàng nghiệm ra rằng
trạng Trình bày cho kế đi vào
phương Nam lập nghiệp. Từ năm
1558 Nguyễn Hoàng vội vàng
đến nói riêng với chị là bà Ngọc
Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào trấn
phiá Nam, năm Mậu ngọ (1558)
đời vua Anh Tông Trịnh Kiểm tâu
vua cho Nguyễn Hoàng vào trấn
đất Thuận Hóa, phía Nam dãy
Hoành Sơn. Nhờ thế mà lập nên
cơ nghiệp của họ Nguyễn ở Đàng
Trong, truyền nối lâu dài.
Nguyễn Hoàng là người khôn
ngoan, có lòng nhân đức thu
dụng hào kiệt giúp dân cho nên
được lòng dân kính phục. Trấn
giữ đất Thuận Hóa, mở đầu cho
triều đình nhà Nguyễn từ từ khai
phá cho đến vùng đồng bằng
sông Cửu Long ngày nay. Ngoài
ra rất nhiều lời sấm được lưu
truyền qua dân gian nhiều lời bàn
diễn giải khác nhau như
câu: ” Cẩu vĩ trư đầu, xuất thánh
nhân ” ứng nghiệm vào việc vua
Gia Long lên ngôi từ (1802-1819)
thống nhất sơn hà vào năm
Nhâm tuất ngày 02-05-1802. trải
qua 13 triều đại. Hoàng đế cuối
cùng Bảo Ðại trị vì từ 1929 và
thoái vị năm 1945.
Tương truyền Trạng Trình nói
trước nhà Mạc suy vong, ông đọc
hai câu thơ: “Cao Bằng tàng tại-
tam đại tồn cô” (nghĩa rằng rút
về đất Cao Bằng thì sẽ sống
thêm được ba đời nữa) con cháu
họ Mạc về đất Cao bằng tuy nhỏ
nhưng được 3 đời là Mạc Kính
Cung, Mạc Kinh Khoan và Mạc
Kinh Vũ. Dòng dõi họ Mạc bị bắt,
bị giết nhiều người đổi họ lưu lạc
khắp nơi để mưu cầu sự sống.
Trạng Trình có 3 người vợ và 12
người con (7 trai 5 gái) các con
trai đều có chức tước sau nầy.
Ông mất ngày 28 tháng 11 năm
Đinh dậu, niên hiệu Diên Thành
thứ 8 nhà Mạc (1585) hưởng thọ
94 tuổi. Theo sử sách Trạng trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có
công lớn đối với triều đình nhà
Mạc nên sau khi mất (1585) vua
Mạc Mậu Hợp ứng cử Ứng Vương
Mạc Đôn Nhượng, phụ chính triều
đình làm khâm sai cùng với văn
võ bá quan về dự lễ tang. Tháng
Giêng năm sau (1586), vua Mạc
ban cho làng Trung Am 3.000
quan tiền để lập đền thờ ông và
cấp 100 mẫu ruộng để lấy hoa lợi
dùng vào việc thờ cúng. Đền thờ
được dựng trên nền Giảng học –
Am Bạch Vân và tự tay nhà vua
đề biển ngạch: “Mạc Triều Trạng
Nguyên Tể Tướng Từ” (Đền thờ
Tể tướng Trạng nguyên Triều
Mạc). Trải qua những biến cố lịch
sử ngôi đền được trùng tu, xây
dựng lại nhiều lần vào các năm:
Vĩnh Hựu nguyên niên (Ất Mão
1735, đời vua Lê Ý Tông); Minh
Mạng thập tứ (1833). Ngôi đền
hiện nay được dựng lại vào năm
Mậu Thìn (1928) đời vua Bảo Đại.
Đến năm 1985, nhân kỷ niệm 400
năm ngày mất của ông, một lần
nữa đền lại được trùng tu làm
thêm nhà khách, hồ nước, cổng
đền, tường bao, đường vào
đền…
Trước khi qua đời, Trạng trình có
ghi vào gia phả và dặn con cháu
rằng: Bình sinh ta có tấm bia đá
sẵn và đã sơn kia. Khi ta mất rồi,
hễ hạ quan tài xuống phải để tấm
bia đá ấy lên nắp rồi lấp đất. Chờ
khi nào có khách tới viếng mộ và
nói rằng: “Thánh nhân mắt
mù” thì phải lập tức mời người ấy
vào nhà, yêu cầu họ đổi hướng
lại ngôi mộ cho ta. Nếu trái lời ta,
dòng dõi về sau sẽ suy đồi lụi bại
đấy. Con cháu nghe lời, làm y
như đã dặn. Nhưng chờ mãi đến
năm mươi năm sau, mới có người
khách đến nhìn mộ cụ một lúc rồi
nói: Cái huyệt ở đằng chân sờ sờ
thế kia mà không biết, lại tự đem
để mả thế này. Vậy mà thánh
nhân gì chớ, hoạ chăng là thánh
nhân mắt mù. Người trong họ
nghe được, chạy về báo với
trưởng tộc. Ông này vội vàng ra
đón người khách Tàu kia về nhà,
xin để xoay ngôi mộ kia lại. Ra đó
là một nhà phong thuỷ (Feng
Shui) trứ danh ở phương Bắc.
Ông ta sang là để đi tìm xem di
tích của Trạng, bấy lâu ông ta đã
nghe tiếng đồn. Khi nghe vị
trưởng tộc nói, ông ta sẵn lòng
làm ngay, và tự đắc cho rằng
mình giỏi hơn Trạng Trình. Ông ta
bảo: Không cần phải đem đi đâu
xa cả, chỉ đào lên rồi xoay lại,
nhích đi một chút là được. Ông
trưởng tộc bèn tụ họp con cháu
lại, đưa thầy địa lý Tàu ra đổi lại
ngôi mộ. Lúc đào đến tấm bia đá,
ông ta làm lạ bảo đem rửa sạch
xem những gì trên đó. Khi tấm
bia được rửa sạch, mới thấy mấy
câu thơ hiện ra, tạm dịch nghĩa:
Ngày nay mạch lộn xuống chân
Năm mươi năm trước mạch dâng
đằng đầu.
Biết gì những kẻ sinh sau?
Thánh nhân mắt có mù đâu bao
giờ?
Đọc tới đây vị khách Tàu phải
khâm phục Trạng Trình mà ông ta
nghe đồn là giỏi thật. Năm 1930
Việt Nam Quốc Dân Ðảng lãnh tụ
Nguyễn Thái Học (1901-1930)
lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa
ngày 10.2.1930 đánh Tây ở các
tỉnh: Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm
Thao, Hải Dương, Kiến An. Thất
bại bị Pháp điên cuồng ném bom
tàn phá làng Bảo An để trả thù.
Có lời đồn Trạng Trình đã tiên
đoán:
(Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc rung Nam rung tới Tây
Tan tác
kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am cây
Lâm giang nổi gió mù thao cát
Hưng địa tràn dâng hóa nước
đầy
.Một ngựa một
yên ai sùng bái
Nhắn con nhà vĩnh bảo cho hay.)»Thoát Nạn Sập Nhà
Trạng giao cho con cháu
một ống tre sơn son thếp vàng,
bịt kín hai đầu, và dặn đúng năm
tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để
cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh
Thống đốc Hải Dương, trao cái
ống này cho quan thì sẽ cứu
được tình thế gia đình.
Khi Trạng mất, hằng trăm năm
sau, con cháu Trạng lâm vào
cảnh đói nghèo, sa sút, nhưng
tuyệt đối không được mở ống ra
xem trước thời hạn. Trạng còn
dặn kỹ trừ quan Tổng đốc ra,
không ai được mở ống, vì thế
vẫn giữ nguyên.
Trải qua bảy đời, cái ống tre ấy
mới được rước lên dinh quan
Tổng đốc, đúng ngày giờ đã ghi
trong gia phả. Đang nằm nghỉ,
nghe tin con cháu cụ Trạng mang
thư đến gặp, quan Tổng đốc rất
ngạc nhiên, không biết vì cớ gì,
nên truyền cho vào, đồng thời
quan ngồi dậy để đi ra cửa.
Quan Tổng đốc vừa bước khỏi
võng nằm được mấy bước thì
bỗng rầm một cái, chiếc Xà nhà
không biết bị mọt ăn hỏng từ bao
giờ, rơi ngay xuống chỗ võng
vừa nằm. Thật là một phen hú
vía! Nếu ông không kịp ngồi dậy
nhận thư Trạng, thì mạng ông đã
khó mà sinh tồn. Quan Tổng đốc
mở ống tre ra xem, thấy bên
trong có một cuộn giấy, đề hai
câu thơ:
"Ngã giải nhĩ thượng lương chi
ách,
Nhĩ cứu ngã tử tôn chi bần
"
Nghĩa là:
Ta Cứu người thoát nạn đổ nhà,
Ngươi nên cứu cháu con ta khỏi
nghèo.
Chưa hết kinh hoàng vì chuyện
chiếc Xà nhà vừa rơi xuống, ông
thoát nạn nhờ ra lấy lá thư.
Quan Tổng đốc biết rằng Trạng
Trình cứu ông thoát chết, nên
ông ta ân cần mời cháu Trạng
Trình về tư thất đãi hậu hỹ,√à đưa ra rất nhiều tiền giúp khỏi nghèo đói.
»Nguyễn Công Trứ (1778-1858)
phá đền
Minh Mạng (1791-1840) năm
thứ 14, Nguyễn Công Trứ được
vua điều đi khẩn hoang ở vùng
Hải Dương, Nguyễn Công Trứ
thấy địa thế cần phải đào con
sông, đào sông thì phải phá đền
thờ Trạng trình.Ông ra lệnh cho dân phu
phá đền để khai phá công
trường. Khi sai người đào- mang
bát hương ra, Nguyễn Công Trứ
chợt thấy dưới bát hương có một
tấm bia đá nhỏ phủ vải điều.
Nguyễn Công Trứ lau sạch đọc
được các câu đã ghi:
Minh Mạng thập tứ
Thằng Trứ phá Đền
Phá Đền thì phải làm đền
Nào ai đụng đến doanh điền nhà
bay
.
Nguyễn Công Trứ lập tức viết sớ
về Kinh, xin bãi lệnh phá đền.
Ông còn cho người sửa sang lại
đền Trạng Trình khang trang
hơn. Từ đó ông không còn nghĩ
đến việc phá đền để đào sông
nữa.
»Cha con thằng Khả
™
Tục truyền trong làng có cha con
ông Khả đi bắt dế (chuột) kiếm
sống. Khi đến bên mộ Trạng, hai
cha con vướng víu thế nào lại làm
đổ tấm bia trên mộ. Dân làng rất
sùng kính Trạng Trình, nên khi
thấy bia mộ bị đổ, họ nổi giận bắt
cả hai cha con, kêu nộp phạt tám
quan tiền mới tha, vì khi tấm bia
đổ xuống thấy có hàng chữ ở
sau:
"Cha con thằng Khả
Đánh ngã bia tao
.
Làng xóm xôn xao
Bắt đền tam quán
"
Cha con ông Khả chịu nộp phạt,
nói dân làng phải tha cha con
về nhà chạy tiền. chỉ tìm được có
một quan tám, dân làng không
chịu, cha con ông Khả ngẫm nghĩ
phải nói với dân làng: Cha con tôi
bị Trạng Trình bắt phạt có quan
tám, “Tam quán” nói nái thành
quan tám.
Thời gian và thế sự xoay vần
Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời bước
ra
Hùm gầm khắp nẻo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời
Rồng bay năm vẻ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời sa
tăng
Ngựa hồng qủy mới nhăn răng.
Những điều tiên đoán trên, liên
quan với hiện tình đất nước Việt
Nam. Hy vọng năm 2013 Quý Tỵ
cầm tinh con rắn, Việt Nam bước
vào giai đoạn lịch sử mới mẻ hơn,
người dân biết những gì xảy ra
tại các nước khác, giới trẻ ra
nước ngoài học và trở về. Tôi hy
vọng toàn dân cùng đoàn kết hỗ
trợ nhau để
canh tân đất nước đem lại tự do,
dân chủ đưa VN đến phú cường
và thịnh vượng. Đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo Xã tắc trị bình. Thiên đường cộng
sản Liên Xô (Soviet Union) sụp đổ
kéo theo các nước trong các
nước Đông Âu: Poland, Romania,
Hungary, Bulgaria,
Czechoslovakia (Slovakia/
Slovenia) bỏ chế độ cộng sản để
có tự do, độc lập và nhân quyền
được tôn trọng . Noi gương nước
láng giềng Miến Điện cởi mở, trả
tự do cho những tù nhân chính
trị, chấm dứt chính sách đàn áp,
kiểm duyệt truyền thông báo chí,
cho bầu cử tự do…
Những người cầm quyền đưa đất nước
phục hưng về kinh tế, chính trị
giữ vững bờ cõi nền cộng hoà.
Những nhà độc tài giàu sang
hàng trăm tỷ USD như Saddam
Hussein, (Iraq) Gadhafi, (Lybia)
N. Ceausescu (Romania) người
đời nguyền rủa và bị giết kéo xác
trên đường phố như một con
chó, con cháu họ cũng bị giết hay
bị tù tội, gia đình ly tán tài sản bị
tịch thu.
Thơ văn của Trạng Trình Nguyễn
Bỉnh Kiêm còn lại hơn 100 bài
trong bộ Bạch Vân Thi Tập, được
dịch ra chữ quốc ngữ, thơ mang
nặng tình người, khuyên người
đời biết điều nhân nghĩa, ngoài
ra còn một số giai thoại truyền
tụng trong nhân gian…và những
lời sấm ký có giá trị.
Đời sống của tiên sinh thật xứng
đáng với câu đối ở đền thờ tại
Bạch Vân Am:
“Kế tuyệt, phù suy Chư Cát
Lượng
Tri lai, tàng vãng Thiệu Nghiên
Phu”
(Nối được cái đã đứt, đỡ được cái
đã suy như Chư Cát Lượng
Tìm hiểu việc đã qua, dự đoán
việc mai sau như Thiệu Nghiên
Phu).
Nhà thờ ở huyện Vĩnh Bảo, Hải
Phòng, có bức hoành phi đại tự ở
chính giữa có 4 chữ “An Nam lý
học” từ câu “An Nam lý học hữu
Trình Tuyền” có nghĩa là tài
lý học ở nước An Nam có Trình
Tuyền hầu (tước vị của Nguyễn
Bỉnh Khiêm), Đặc biệt có một số
câu đối nói rõ chính kiến của ông
về thế sự và hậu thế ca ngợi
công đức của ông.